Bốn quốc gia từng bị Đại Việt xóa sổ
- HÒA BÌNH
- Feb 13
- 26 min read

Trong tiến trình ngàn năm dựng nước và giữ nước, Đại Việt là cái nôi chứng kiến sự hình thành của nhiều đế chế hùng mạnh. Trải dài trên mảnh đất hình chữ S, trong suốt hàng ngàn năm lịch sử ấy, là sự tồn tại của những đế chế hùng mạnh, diện tích rộng lớn tuy nhiên dòng chảy của lịch sử vẫn luôn chảy mãi, có những thời kỳ đã kết thúc chỉ còn lại một cái tên trên trang sử sách sau này. Vậy những vương quốc cổ đại nào từng tồn tại và biến mất ở nước ta? Những vương quốc ấy đã bị diệt vong như thế nào? Xin mời quý vị cùng tôi đi tìm hiểu ngay sau đây:
1. Chiêm Thành hay còn gọi là Chăm Pa
Chăm Pa hay Chiêm Thành là quốc gia cổ của người Chăm, nằm ven biển miền Trung của Việt Nam. Lịch sử Chăm Pa bắt đầu từ thế kỷ 2 sau Công nguyên, có nền văn minh Sa Huỳnh lâu đời, tương đương với nền văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc nước ta. Từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, người Chăm pa chính là hậu duệ của người Sa Huỳnh cổ về ngôn ngữ, văn hóa, là xã hội tiền sử của thời đại Kim Khí. Người chăm giỏi nghề thủ công mỹ nghệ, rất khéo tay đã chế tác ra rất nhiều trang sức bằng đá, thủy tinh, sắt. Họ biết trao đổi buôn bán với các quốc gia láng giềng trong khu vực Đông Nam á bằng đường bộ, đường biển. Năm 1474 đánh dấu cho ngày thất thủ Thành Đồ Bàn Visaza. Đại Việt sát nhập lãnh thổ Chăm Pa ở phương Bắc và giời biên giới của mình đến đèo Cù Mông, ở phía Nam Bình Định. Kể từ đó Chăm pa bị thu hẹp lại trong hai tiểu vương quốc Kauthara Phú Yên, Nha Trang ngày nay và Panduranga Phan Giang Phan Rí ngày nay. Thế là Vương quốc Campuchia bé nhỏ này phải đứng đầu kể từ thế kỷ 16 với chính sách Nam tiến của nhà Nguyễn hùng mạnh cả quân sự lẫn kinh tế. Trước đó các Vương triều Chăm pa và Đại Việt cũng đã có rất nhiều trận đánh với nhau: Thời nhà Lý năm 1068, vua Vizaya là Ruravaman III tức Chế Cổ tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa Vương quốc Chăm pa bị thất bại và Đại Việt lại chiếm phá kinh đô Vizaya (Bình Định ngày nay). Kinh đô Vizaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Chăm pa và chiếm Vizaya. Vua Rút Ravaman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi 3 châu địa lý Ma Linh và Bố Chính để lấy tự do.
Thời nhà Trần, khi nhắc đến lãnh thổ Chăm pa ở vùng phía Bắc, giáp ranh với Đại Việt, chúng ta sẽ nhớ ngay đến sự kiện vua Chế Mân của Chăm Pa dâng 2 châu Ô và châu Lý tương đương với 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cho vua Trần để làm của hồi môn cưới công chúa Huyền Trân. Vị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm pa là Chế Bồng Nga. Theo Đại Việt sử ký toàn thư năm 1491, ông cai trị từ năm 1360 đến năm 1390, ông tấn công vào Đại Việt nhiều lần. Quân đội Chăm pa đã đánh phá Thăng Long vào các năm 1372, 1378 nhưng không chiếm đất đai của Đại Việt. Vì người Chăm pa chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, họ tôn vinh thức hệ chiến tranh chinh phạt chống ngoại bang nhưng không bao giờ nghĩ đến chính sách chiếm đất đai của nước khác. Và trong lần tấn công cuối cùng của quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là năm 1389, nhờ có mưu kế của tướng Nguyễn Đa Phương nên quân đội Nhà Trần mới có thể rút lui bảo toàn lực lượng. Quân đội Chăm pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga theo 2 đường thủy bộ tiến đến tận Hải Triều, khúc sông luộc chảy qua huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay. Tại đây sau trận thủy chiến với Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã tử trận. Đó là năm 1390, đây là lần tấn công cuối cùng của quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt.
Thời nhà Lê, năm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy để tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này rất mạnh và có tổ chức tốt, ngược lại quân Chăm rất yếu và thiếu tính tổ chức. Đại Việt nhanh chóng đánh bại quân Chăm và bao vây Vizaya. Thành Vizaya thất thủ vào ngày 02/3/1471 sau 4 ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường trở về Thăng Long, kinh thành Vizaya bị phá hủy hoàn toàn. Sau chiến thắng, vua Lê Thánh Tông đã sát nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam.
Thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, các chính sách của vua chúa Đại Việt và nhất là công cuộc Nam tiến của Chúa Nguyễn Hoàng trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh đã khiến cho diện tích của Chăm pa ngày càng thu hẹp và bại vong vào năm 1832. Do không đủ tiềm lực để tiến quân chống chúa Trịnh phương Bắc, chúa Nguyễn chỉ còn cách phát động phong trào Nam tiến về phía Nam vì đất đai của đồng bằng Thuận Hóa khá chật hẹp. Năm 1611 đánh dấu ngày xuất quân Nam tiến đầu tiên của chúa Nguyễn, quân đội chúa Nguyễn đã vượt đèo Cù Mông ở phía Nam Bình Định để tấn công Aya Ru của Chăm pa, sau đó biến khu vực vừa mới chiếm đóng thành phổ Phú Yên. 42 năm sau, chúa Nguyễn tiếp tục xuất quân chiếm Nha Trang vào năm 1653 và rời biên giới miền Nam của mình đến Cam Ranh. Kể từ đó Nha Trang đã trở thành 2 đơn vị hành chính của người Việt, đó là Thái Khang và Diên Khánh. Thế là Vương quốc Chăm pa chỉ còn vọn vẻn trong khu vực Phan Rang và Phan Rí. Tiếp đó chúa Nguyễn đánh chiếm lãnh thoor Cao Miên ở Biên Hòa, kể từ năm 1653, Chăm pa trở thành một lãnh thổ hoàn toàn bị bao vây. Ở phía Bắc giáp căn cứ quân sự của nhà Nguyễn ở Cam Ranh, và phía Nam giáp căn cứ quân sự của nhà Nguyễn ở Biên Hòa. Sự cô lập Chăm pa kể từ 1653 đã giải thích phần nào sự suy vong của vương quốc Chăm pa trong những năm kế đến.
Hết đương đầu với chiến tranh giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, Chăm pa bị lôi kéo vào một cuộc nội chiến khác giữa phong trào Tây Sơn ở Bình Định và Nguyễn Ánh trấn thủ ở Sài Gòn. Suốt 35 nội chiến, Tây Sơn biến Nha Trang thành khu vực địa đầu quân sự của mình. Trong khi đó Nguyễn Ánh trấn thủ ở Gia Định, hoàn cảnh địa dư này đã biến Chăm pa thành một khu vực nằm giữa 2 gọng kìm biên giới quân sự của Tây Sơn ở phía Bắc và Nguyễn Ánh ở phía Nam. Thế là vương quốc Chăm pa phải đón nhận hàng năm sự hiện diện quân đội viễn chinh của Tây Sơn và Nguyễn Ánh trên lãnh thổ của mình. Lý do rất là giản dị muốn tấn công Nguyễn Ánh ở Gia Định, Tây Sơn phải làm chủ quân sự ở Chăm pa, khu vực Phan Giang và Phan Rí đi trước. Về phía Nguyễn Ánh muốn tấn công Tây Sơn ở Bình Định, Nguyễn Ánh phải xua quân chiếm đóng Chăm pa trước tiên, sau đó mới có thể tiến quân đến Nha Trang được. Trong suốt cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, biên giới của vương quốc Chăm pa hoàn toàn bị xóa bỏ trên bản đồ, vì thiếu quân lực để phòng thủ. Thêm vào đó mọi cơ cấu tổ chức chính trị và xã hội Chăm pa hoàn toàn bị sụp đổ, các tầng lớp lãnh đạo Chăm pa chia thành 2 phe nhóm: một theo Tây Sơn và một theo Nguyễn Ánh, vì rằng một khi đã xâm chiếm Chăm pa làm cứ điểm quân sự, Nguyễn Ánh thành lập một chính quyền mới của vương quốc này, tập trung những thành phần lãnh đạo thân cận với mình. Một khi tiến quân vào Chăm pa, Tây Sơn lại ra lệnh thanh trừng gắt gao những phần tử người Chăm pa theo Nguyễn Ánh, để rồi thành lập một chính quyền khác theo ý mình. Sự thay đổi liên tục chính quyền trong thời điểm đó đã đưa mọi cơ cấu tổ chức quốc gia Chăm pa đứng trước nguy cơ sụp đổ. Nói tóm lại Chăm pa không còn tồn tại với danh nghĩa là một quốc gia độc lập và tự chủ trong suốt cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh kể từ 1771 đến năm 1802. Năm 1802 Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế với tôn hiệu là Gia Long, để tri ân đến những chiến sỹ đã từng chiến đấu bên cạnh mình, Gia Long tái lập lại vương hiệu Chăm pa. Vậy là từ năm 1802, Chăm pa không còn là một quốc gia độc lập nữa, mà là một lãnh thổ tự trị đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Việt Nam và hưởng quyền che chở rất đặc biệt của Hoàng đế Gia Long và tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt được xem như là một ông phó Vương ở miền Nam thời đó. Sau ngày Gia Long từ trần vào năm 1820, Hoàng đế Minh Mạng đưa ra chính sách cai trị hoàn toàn ngược lại với chủ trương của Gia Long, Minh Mạng xóa bỏ hoàn toàn chính sách ưu đãi dành riêng cho vương quốc Chăm pa do Gia Long để lại, và tìm cách ngăn chặn mọi ảnh hưởng của Lê Văn Duyệt ở vương quốc này. Nhân danh một nhà tướng có công trạng lớn lao trong chiến tranh chống Tây Sơn và lập rất nhiều công lao dưới thời Gia Long, Lê Văn Duyệt vùng dậy phản đối chính sách Minh Mạng và nhất quyết đứng ra bảo vệ vương quốc Chăm pa. Sự khủng hoảng giữa Minh Mạng và Lê Văn Duyệt bắt đầu bùng nổ, và vương quốc Chăm pa lại trở thành nạn nhân thứ 3 của cuộc chiến nội bộ giữa người Việt Nam thời đó. Vì quá thân cận với Lê Văn Duyệt, giai cấp lãnh đạo Chăm pa thời đó không hoàn toàn phục tùng Hoàng đế Minh Mạng nữa, mà có ý theo Lê Văn Duyệt. Năm 1832 Lê Văn Duyệt từ trần, Minh Mạng tiến quân vào Chăm pa và sát nhập hoàn toàn vùng đất này vào lãnh thổ nước ta. Tức là nưm 1832 đánh dấu ngày sụp đổ hoàn toàn của vương quốc Chăm pa.
2. Phù Nam
Dải đất hình chữ S của Việt Nam ngày nay vào thời cổ đại là chiếc nôi của 3 nền văn minh lớn trải đều 3 miền: Miền Bắc là nền văn minh Đông Sơn, nền văn minh sau đó trải dài tới mãi Hồ Động Đình, sông Dương Tử. Miền Trung là nền văn minh Sa Huỳnh, với kỹ thuật luyện kim vượt trội còn vùng Nam bộ là nền văn minh Óc Eo tạo nên vương quốc Phù Nam, một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam á. Theo sách lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Phù Nam là tên gọi của vương quốc cổ ra đời ở vùng Tây Nam bộ khoảng đầu Công nguyên. Theo các thư tịch cổ và các giai đoạn thịnh trị vương quốc Phù Nam kiểm soát nhiều vùng rộng lớn, người Óc Eo tiếp thu nền văn minh Ấn Độ giỏi trị thủy, người dân có niềm tin vào Phật pháp, khiến Phù Nam ngày càng văn minh thịnh vượng. Do nằm ở vị trí giao thông hàng hải quan trọng, Phù Nam trở thành trung tâm thương mại đường thủy ven bờ và phát triển ngày càng thịnh vượng. Nơi đây có con kênh dài đến 90 km đến Angcoboray, một huyện thuộc tỉnh Takao phía Nam Campuchia. Óc Eo có vị trí rất thuận lợi tại trục đường thương mại giữa biển, một bên là bán đảo Mã Lai cùng Ấn Độ, bên kia là sông Mê Kông cùng Trung Hoa, vị trí giúp Óc Eo trở thành điểm trung chuyển thuận lợi. Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy rất nhiều vật phẩm thương mại có giá trị ở nơi đây, đến từ Rome, Ấn Độ, Trung Hoa cùng các nước Đông Nam á như là đồng tiền, chuỗi hạt đá quý, thủy tinh, đồ dùng bằng kim loại, trang sức bằng vàng, ngọc. Hình chữ Vạn cũng xuất hiện trên nhiều các vật phẩm trang sức bằng vàng. Những đồng tiền bằng bạc được tìm thấy ở Phù Nam cũng tìm thấy ở Mã Lai, Thái Lan và Miến Điện cho thấy hoạt động thương mại rộng lớn của vương quốc cổ Phù Nam. Đến thứ kỷ thứ 4 Phù Nam được cai trị bởi vương triều Thiên Trúc, Chiên Đàn, Chăn Đan Phù Nam vẫn phát triển ổn định nhờ sự vững mạnh của mình đã mở rộng thêm lãnh thổ chiếm trọn vùng đất thuộc Campuchia ngày nay, chiếm cả vùng đồng bằng sông Mê Nam thuộc Thái Lan ngày nay. Lúc này đế quốc Phù Nam có lãnh thổ rộng lớn đến cực điểm, bao gồm toàn vùng Nam bộ của Việt Nam ngày nay, toàn bộ Campuchia, vùng đồng bằng sông Mê Nam của Thái Lan, một phần Mã Lai và một phần của Miến Điện. Theo Lương Thư, đến thế kỷ thứ 5, một người Thiên Trúc tên là Kiều Trần Như (Kaundinya Jayavarman) được dân chúng suy tôn lên làm vua, lập sang phương triều Kaundinya II. Thay đổi chế độ nhà nước của Phù Nam sang kiểu Ấn Độ, lấy 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Bà la môn làm nền tảng tư tưởng cho cả nước. Phù Nam tiếp tục phát triển hưng thịnh và trở thành cầu nối giữa các nền văn minh trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây như Trung Hoa, Ấn Độ, La Mã, Ba Tư… trở thành đế quốc hàng hải hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ. Tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, khi người dân đảo Kinh Sáng Ba Thê đã phát hiện công trình cổ, các nhà khảo cổ học đã xác định có một hải cảng sầm uất của Phù Nam xưa kia. Đến thế kỷ thứ 6, Phù Nam xảy ra cuộc chiến quyền lực giữa các hoàng tử, khiến thế nước dần suy yếu. Người Khmer ở Chân Lạp tức Campuchia ngày nay nhân cơ hội này nổi dậy nhằm giành độc lập cho dân tộc mình, đánh chiếm giành lại đất đai cho người Khmer. Rồi lan sang các vùng đất vốn thuộc cai quản của Phù Nam. Vào năm 550 vua Chân Lạp là Trì Đà Tư Na (Bhavavarman I) đem quân tiến đánh vào kinh thành Đặc Mục (Vyadhapura) của Phù Nam, vua Phù Nam bấy giờ là Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman) không chống đỡ nổi phải bỏ kinh thành chạy sang thành Na Phất Na (Naravaranagara). Kinh thành Đặc Mục vốn là một trong những trung tâm văn hóa của thế giới, nơi hội tụ tinh hoa của cả vùng Đông Nam á, bỗng chốc bị phá hủy bởi người Khmer. Từ đó Phù Nam suy sụp không thể gượng dậy nổi, những thuộc quốc cũng ly khai khỏi Phù Nam. Tuy nhiên Phù Nam vốn là đế quốc có nền văn minh lâu đời nên không bị diệt ngay, phải đến thế kỷ thứ 8 tức là 2 thế kỷ sau, Chân Lạp mới dần dần chiếm trọn Phù Nam và sáp nhập vào Chân Lạp. Phù Nam phát triển rực rỡ nhờ giao thương hàng hải và giỏi trị thủy, nhưng người Khmer lại không giỏi việc này, vì thế không kế tục được những ưu thế vốn có mà Phù Nam để lại. Dù Chân Lạp sau này có phát triển nhưng tầm ảnh hưởng cũng chỉ trong khu vực Đông Nam á, kém xa so với tầm ảnh hưởng thế giới của văn minh Phù Nam. Nam Tề thư, môt thư tịch cổ của Trung Hoa có ghi chép về người Phù Nam như sau: “Người Phù Nam thường buôn vàng bạc tơ lụa, con cái nhà quý tộc thường mặc xà rông bằng lụa the, đàn bà thì mặc một thứ áo vải luồn qua đầu, người nghèo thì quấn một mảnh vải thô quanh mình, họ đút nhẫn vào vòng đeo tay bằng vàng, làm bát đĩa bằng ngọc. Họ đốn cây lẫy gỗ làm nhà và rào, vườn tược xung quanh nhà. Nhà vua ở trong một nhà lầu có tầng gác, dọc bờ biển người ta trồng cây thốt nốt lá dài dùng để lợp nhà. Người ta đóng những chiếc thuyền dài 8,9 trượng, rộng 6,7 phần mười trượng. Mũi thuyền và lái thuyền giống như là đầu và đuôi cá. Nhà vua ngự trên mình voi, đàn bà thì có thể cưỡi voi đi, họ thích chơi chọi gà.
3. Bồn Man
Trong lịch sử mở rộng bờ cõi Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông từng xuất hiện quân tiến đánh Bồn Man và Lan Sang, truy đuổi quân địch sang cả nước láng giềng khiến các nước Đông Nam á thuần phục. Quan hệ giữa Đại Việt và Lan Sang vốn không tốt, kể từ đầu thế kỷ 14 đến thế kỷ 15 lại tiếp tục xấu đi, Lan Sang từng mang quân đánh phá biên giới Đại Việt và xung đột bùng phát. Sau đó theo sử Lào, năm 1478, một viên tướng của Lan Sang bắt được một con voi trắng dâng vua. Theo quan niệm thời ấy vị vua nào được sở hữu voi trắng được xem là điềm lành, vì vậy voi trắng được xem là bảo vật vô giá ở các nước như Lan Xang hay Xiêm La, Miến Điện… Được tin vua Đại Việt sai sứ sang xin lông voi trắng, thế tử Lan Xang là Trao Leng vốn ghét Đại Việt nên thay vì tặng lông voi trắng thì lại cho phân voi vào chiếc rương rồi gửi cho vua Đại Việt. Điều này khiến vua quan Đại Việt nổi giận. Cũng trong thời điểm năm 1478, theo Việt Nam sử lược thì Bồn Man từ lâu vốn thuần phục Đại Việt nhưng tù trưởng là Lương Cẩm Tông bỗng liên kết với Lan Xang đem quân cướp phá châu Quỳ Hợp thuộc Nghệ An ngày nay, vua Lê quyết định cất quân sang đánh nhằm giữ yên vùng biên giới. Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép rằng, đã định ngày 28 tháng 7 này đặc mệnh tướng thần, chi đường tiến đánh chinh Tây tướng quân Lê Thọ Vực là tiên phong, đi đường chính chỉ huy các quân, các doanh du kích. Trước hãy giết tên cháu hiếu của giặc Bồn Man để chặt vây cánh nó, rồi chiếm ngay đất hiểm yếu là sư Trấn Ninh, mà đánh vào lòng giặc. Chinh di tướng quân Trịnh Công Lộ chỉ huy các danh quân thổ binh từ đường An Tây tiến vào để chiếm giữ mạn thượng lưu. Trấn Lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn chỉ huy các danh quân hoành dã từ đường Ngọc Ma đánh tới, để cắt ngăn đường giặc chạy. Du kị phó tướng quân là bọn Lê Lộc đi đường Châu Thuận Mỗi để bóp cổ chẹn lưng. Thảo tặc phó tướng quân là bọn Lê Nhân Hiếu theo lối Phổ Thanh Đô để đánh vào chỗ sơ hở.
Theo sử Lào thì quaan của Lan Xang đặt dưới sự chỉ huy của Thái tử Trao Chiêng Lâu cũng có 20 vạn quân, 2000 thớt voi cùng 6 vị dũng tướng là Nora Xing, Nora Narai, Nora Det, Nora Men Loang và Fia Qua Tepa. Ngoài ra chúa xứ Lana, phía Bắc Thái Lan cũng đưa quân sang giúp Lan Sang. Quân Đại Việt nhanh chóng vượt qua Bồn Man, các cánh quân lần lượt tiến đến Lan Sang và giành các chiến thắng. Quân chủ lực Lan Sang chuẩn bị sẵn một trận địa mai phục ở đồi Pomung nhằm chặn quân Đại Việt tiến đến Kinh đô. Các cánh quân Việt lần lượt đến đồi Pomung, những trận đánh lớn diễn ra tại đây kéo dài suốt ba ngày. Cuối cùng quân Đại Việt thắng, quân Lan Sang rút chạy đến Na Khao Chao nay là chùa Watch Visun, quân Việt truy đuổi đến, giao tranh lớn diễn ra ở cánh đồng Na Môn Con và Na Hai Dio cuối cùng quân Đại Việt bao vây và đánh bại quân Lan Sang. Hai tướng Ngoan Qua Tay Ba và Ngoan Nêu A tử trận, Lan Sang vội cử 2 tướng là Men Bull và Men Loan đến cứu Việt nhưng cũng bị đánh bại. Các tướng Nora Xing , Nora Narai, Nora Det và Nora A bị bắt sống. Thế tử Trao Trương Lâu bị thương nặng rồi sau đó cũng bị bắt. Vua Lan Sang là Chakkaphat Phaen Phaeo vội cùng hoàng tộc bỏ kinh thành chạy đến Chiêng Khan của vương quốc Lana nay thuộc tỉnh Lây của Thái Lan. Quân Đại Việt chiếm kinh đô Loang Pha Băng và thu giữ rất nhiều của cải và lương thực ở kinh đô Loang Pha Băng. Nhờ đó tiếp tục truy đuổi toàn quân Lan Sang đến tận Lana tại lưu vực sông Iravadi, giáp biên giới Miến Điện, rồi thuận đà đánh luôn 2 vương quốc Lanna và Ayutthaya. Đến năm 1479, quân Đại Việt ở Bồn Man vấp phải sự kháng cự quyết liệt của thủ lĩnh Cầm Công. Vua Lê Thánh Tông sai Lê Niệm thống lĩnh 30 vạn quân tiến đánh, quân Đại Việt vượt qua các cửa ải đánh chiếm thành trì đập tan toàn bộ lực lượng quân Bồn Man, thủ lĩnh Cầm Công bỏ chạy nhưng không kịp và bị tiêu diệt. Vua Lê Thánh Tông cho em của Cầm Công là Cầm Đông làm tuyên úy đại sứ, để thu phục Bồn Man.
Sau các cuộc chiến này, vua Lê Thánh Tông cho sáp nhập Bồn Man khiến lãnh thổ Đại Việt được mở rộng. Các nước Đông Nam á như Chiêm Thành, Chân Lạp (Campuchia ngày nay), Lansang (Lào ngày nay), Chiêng Mai (Thái Lan ngày nay), Ayutthaya và Java (Indonesia ngày nay) phải thuần phục. Năm 1485, Đại Việt đưa thêm Mê La Ca thuộc Malaysia ngày nay vào danh sách chư hầu có nghĩa vụ phải cống nạp hàng năm cho Đại Việt.
4. Dã Năng
Dã Năng tồn tại từ năm 548 đến năm 571, sau năm 571 tới năm 602 gộp vào nước Vạn Xuân, là một quốc gia tồn tại đồng thời với nước Vạn Xuân của nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư xác định Động Dã Năng ở đầu nguồn Đào Giang, đất phẳng rộng màu mỡ, thuộc đất người Di Lặc ở Ai Lao tức Lào. Theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, ngờ rằng sông Đào là sông Thao, tức là đầu nguồn sông Hồng. Tháng 3 năm 548, nghe tin Lý Nam Đế mất, chồng Độc Khuất Lão Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương, Trần Bá Tiên vây đánh nhiều lần không được. Lý Thiên Bảo là anh trai của vua Lý Nam Đế thấy Động Dã Năng ở đầu nguồn Đào Giang đất phẳng rộng màu mỡ có thể ở được, Lý Thiên Bảo mới đắp thành để ở. Nhân tên đất ấy mà đặt quốc hiệu, đến bây giờ, quân chúng tôn làm Chúa xưng là Đào Lang Vương. Triệu Việt Vương làm vua ở Thành Long Biên, Lý Thiên Bảo làm Đào Lang Vương ở nước Dã Năng. Năm 555, Thiên Bảo chết không có con nối dõi, quân chúng suy tôn người cháu trong họ là Lý Phật tử lên nối ngôi. Năm 557, Lý Phật
Tử đem quân xuống biển Đông đánh nhau với Triệu Việt Vương tại huyện Thái Bình. Hai bên 5 lần giáp trận nhưng chưa phân thắng bại, quân của Phật Tử có phần kém thế hơn. Phật tử liệu không thắng được bèn xin giảng hòa, xin ăn thề. Triệu Việt Vương nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Tiền Lý Nam Đế không nỡ cự tuyệt bèn truy địa giới ở bai Quân Thần nay là 2 xã Thượng Cát Hạ Cát ở huyện Từ Liêm, cho ở phía Tây của nước. Lý Phật tử dời đến thành Ô Diên nay là xã Hạ Mỗ Đan Phượng Hà Nội. Lý Phật Tử có con trai là Nhã Lang xin lấy con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương. Việt Vương bằng lòng nên 2 nhà kết thành thông gia, vì yêu quý Cảo Nương nên Việt Vương cho Nhã Lang ở gửi rể.
Sau Nhã Lang biết được bí mật quân sự của Triệu Việt Vương, báo lại cho Lý Phật Tử, Phật Tử mang quân đánh úp Việt Vương. Việt Vương tự biết thế yếu không thể chống đỡ được bèn đem con gái chạy về phía Nam, muốn tìm nơi đất hiểm để ẩn náu tung tích. Nhưng đến đâu cũng bị quân của Phật Tử đuổi theo sau gót. Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha bị nước chắn than rằng ta hết đường rồi, bèn nhảy xuống biển tự vẫn, người sau cho lập đền thờ ông ở cửa biển Đại Nha. Đại Nha nay là huyện Đại An.
Truyền thuyết kể rằng Nhã Lang bảo vợ trước 2 vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là thông gia, chẳng cũng hay lắm ư. Nhưng cha nàng có thuật gì mà có thể làm lui được quân của cha tôi. Cảo Nương không biết ý của chồng bí mật lấy mũ đâu móng rồng cho xem, Nhã Lang mưu ngầm tráo đổi cái móng ấy, dự bảo riêng với Cảo Nương rằng tôi nghĩ ơn sâu của cha mẹ nặng bằng trời đất. Vợ chồng ta hòa nhã yêu quý nhau không nỡ xa cách, nhưng tôi phải tạm dứt tình về thăm cha mẹ. Nhã Lang về cùng với cha bàn mưu đánh úp vua chiếm lấy nước. Lý Phật Tử lên làm vua cả nước đóng đô ở Phong Châu, vì ông cũng xưng là Lý Nam Đế nên đời sau gọi là hậu Lý Nam Đế, để phân biệt với Lý Bí
Nguồn (Internet)
Nalanda, 13.02.2025 (16 tháng Giêng)
Minh Phước Hải
Four nations that were once erased by Đại Việt
During the millennia of nation-building and defense, Đại Việt was the cradle of many powerful empires. Spanning the S-shaped land, throughout thousands of years of history, various mighty kingdoms with vast territories existed, but the flow of history is ever-moving—some eras came to an end, leaving behind only names on the pages of history. So, which ancient kingdoms once existed and disappeared in our land? How did these kingdoms perish? Join me as we explore this topic right now.
1. Champa (Chiêm Thành)
Champa, also known as Chiêm Thành, was an ancient kingdom of the Cham people, located along the central coast of Vietnam. The history of Champa dates back to the 2nd century AD and is deeply connected to the ancient Sa Huỳnh civilization, which was contemporary with the Đông Sơn culture in northern Vietnam. By the 1st century BC, the Cham people were the descendants of the ancient Sa Huỳnh people, sharing linguistic and cultural ties and representing a prehistoric society of the Metal Age. The Cham people were skilled artisans, excelling in craftsmanship and producing various jewelry made of stone, glass, and iron. They also engaged in trade with neighboring Southeast Asian countries via land and sea routes.
The year 1471 marked the fall of the capital Vijaya (Đồ Bàn). Đại Việt annexed the northern territories of Champa and extended its borders to the Cù Mông Pass in present-day southern Bình Định. Since then, Champa was reduced to two small principalities: Kauthara (modern-day Phú Yên and Nha Trang) and Panduranga (modern-day Phan Rang and Phan Rí). By the 16th century, the small kingdom of Champa faced the powerful Nguyễn Lords' southward expansion (Nam tiến), which was both a military and economic movement.
Before its decline, Champa and Đại Việt had engaged in numerous battles. In 1068, under King Rudravarman III (Chế Cổ), Champa attacked Đại Việt to avenge its defeat in 1044. However, Champa was once again defeated, and Đại Việt sacked the capital Vijaya (modern Bình Định). The city was burned again in 1069 when General Lý Thường Kiệt led the Đại Việt navy to attack Champa, capturing Rudravarman III. To regain his freedom, the Cham king ceded three regions (Ma Linh, Địa Lý, and Bố Chính) to Đại Việt.
During the Trần dynasty, Champa lost more land when King Chế Mân offered Ô and Lý provinces (now Quảng Trị and Thừa Thiên-Huế) as a dowry to marry Princess Huyền Trân of Đại Việt. The last powerful ruler of Champa was Chế Bồng Nga (Po Binasuor), who reigned from 1360 to 1390. He led several successful raids into Đại Việt, attacking Thăng Long (Hanoi) in 1372 and 1378, although he never occupied Đại Việt territory. Unlike Đại Việt, Champa, influenced by Hinduism, valued military campaigns but did not focus on territorial expansion. In 1389, during his final invasion of Đại Việt, Chế Bồng Nga advanced to Hải Triều (modern Thái Bình) but was killed in battle against General Trần Khát Chân in 1390. This marked the last major Cham attack on Đại Việt.
Under the Lê dynasty, in 1470, King Lê Thánh Tông led a powerful and well-organized Đại Việt army to invade Champa. In contrast, the Cham forces were weak and disorganized. After four days of battle, Vijaya fell on March 2, 1471. King Trà Toàn was captured and died on the way to Thăng Long. The Cham capital was completely destroyed, and the territories of Amaravati and Vijaya were annexed into Đại Việt, forming the Quảng Nam region.
During the Trịnh-Nguyễn civil war (17th century), the Nguyễn Lords focused on southward expansion (Nam tiến), further diminishing Champa. Due to a lack of resources to fight the Trịnh Lords in the north, Lord Nguyễn Hoàng expanded southward. In 1611, Nguyễn forces crossed the Cù Mông Pass, invading Aya Ru (Champa territory), and established Phú Yên Province. Forty-two years later, in 1653, the Nguyễn army conquered Nha Trang and extended Đại Việt's southern border to Cam Ranh. As a result, Nha Trang became two administrative units: Thái Khang and Diên Khánh. By then, Champa had been reduced to only the Phan Rang and Phan Rí regions.
Further southward expansion led to the conquest of Khmer territory in Biên Hòa. By 1653, Champa was entirely surrounded—northward by Nguyễn military bases in Cam Ranh, and southward by Nguyễn forces in Biên Hòa. This isolation significantly contributed to Champa’s decline.
During the Tây Sơn rebellion (1771–1802), Champa was caught between Tây Sơn forces in the north and Nguyễn Ánh (later Emperor Gia Long) in the south. For 35 years, Nha Trang served as a Tây Sơn military base, while Nguyễn Ánh controlled Gia Định (Saigon). This geographical position turned Champa into a battleground. Tây Sơn had to secure Phan Rang and Phan Rí before attacking Nguyễn Ánh, while Nguyễn Ánh needed to control Champa before advancing toward Nha Trang. Due to its weak military, Champa lost all control over its borders and became subject to frequent invasions from both sides. The Cham leadership split—one faction supported Tây Sơn, while the other sided with Nguyễn Ánh. Each time Champa was occupied, a new administration was installed, leading to the collapse of its political and social structures.
By 1802, after Nguyễn Ánh defeated Tây Sơn and became Emperor Gia Long, he reinstated Champa as a protectorate under the Nguyễn dynasty. Champa was no longer an independent kingdom but an autonomous region under Đại Việt's protection. Gia Long, recognizing Cham soldiers’ loyalty, granted them special privileges. However, after Gia Long’s death in 1820, Emperor Minh Mạng reversed these policies, abolishing Champa’s autonomy and curbing Lê Văn Duyệt's influence in the region.
As Lê Văn Duyệt had strong ties to Champa, many Cham leaders opposed Minh Mạng’s rule. In 1832, after Lê Văn Duyệt’s death, Minh Mạng fully annexed Champa, integrating it into Đại Việt’s territory. Thus, the year 1832 marked the complete dissolution of the Champa kingdom.
Here is the English translation of the text:
Phù Nam
The S-shaped land of present-day Vietnam was the cradle of three major civilizations in ancient times, spread across three regions. The North was home to the Đông Sơn civilization, which extended to the Dongting Lake and Yangtze River. The Central region was influenced by the Sa Huỳnh civilization, known for its superior metallurgy, while the South was dominated by the Óc Eo civilization, which gave rise to the powerful kingdom of Phù Nam—a major empire in Southeast Asia.
According to the History of Ancient and Medieval Vietnam, Phù Nam was an ancient kingdom that emerged in the southwestern region around the beginning of the Common Era. Historical records describe Phù Nam as a vast and influential empire that controlled extensive territories during its peak. The people of Óc Eo adopted Indian civilization, excelled in water management, and had a strong faith in Buddhism, leading to a flourishing and advanced culture.
Due to its strategic maritime position, Phù Nam became a major coastal trade hub, thriving through commerce. A canal stretching 90 km led to Angcoboray, a district in present-day Takéo Province, Cambodia. Óc Eo's prime location connected it to maritime trade routes between the Malay Peninsula and India on one side, and the Mekong River and China on the other, making it a key transshipment point. Archaeologists have uncovered numerous valuable trade goods in Óc Eo, including Roman, Indian, Chinese, and Southeast Asian artifacts such as coins, gemstone beads, glassware, metal objects, and gold and jade jewelry. The swastika symbol appeared frequently on gold ornaments, and silver coins found in Phù Nam were also discovered in Malaysia, Thailand, and Myanmar, indicating its vast commercial network.
By the 4th century, Phù Nam was ruled by dynasties of Indian origin, such as the Tianzhu (Heavenly India), Chien Dan, and Chan Dan dynasties. During this time, Phù Nam expanded its territory, conquering present-day Cambodia and the Chao Phraya Delta in Thailand. At its height, the Phù Nam empire covered all of southern Vietnam, Cambodia, the Chao Phraya Delta in Thailand, parts of Malaysia, and parts of Myanmar.
According to Liang Shu, in the 5th century, an Indian named Kaundinya Jayavarman was proclaimed king by the people and established the Kaundinya II dynasty. He restructured Phù Nam into an Indianized kingdom, adopting both Buddhism and Brahmanism as its state religions. Phù Nam continued to flourish as a bridge between Eastern and Western civilizations, engaging in trade with China, India, Rome, Persia, and other nations, making it one of the world's most powerful maritime empires.
At Thoại Sơn District, An Giang Province, Vietnam, locals discovered ancient ruins, which archaeologists later identified as a bustling seaport of ancient Phù Nam. However, in the 6th century, internal power struggles weakened the kingdom. The Khmer people of Chenla (present-day Cambodia) seized the opportunity to revolt for independence, gradually reclaiming their land and expanding into Phù Nam’s territories.
In 550, King Bhavavarman I of Chenla led an army to capture Vyadhapura, Phù Nam’s capital. King Rudravarman of Phù Nam was unable to resist and fled to Naravaranagara. Vyadhapura, once a major cultural center of Southeast Asia, was destroyed by the Khmer, marking the decline of Phù Nam. Many vassal states broke away, and while Phù Nam persisted for some time, it ultimately fell in the 8th century when Chenla fully absorbed it. Despite its maritime prowess, the Khmer were not adept at water management, failing to inherit Phù Nam’s strengths. Although Chenla later flourished, its influence remained regional, far less significant than the global impact of Phù Nam’s civilization.
According to Nan Qi Shu, an ancient Chinese text, the people of Phù Nam were described as follows:"The people of Phù Nam trade gold, silver, and silk. The children of nobles wear sarongs made of fine silk, while women wear a cloth garment draped over their heads. The poor wear rough cloth wrapped around their bodies. They wear gold rings and bracelets and use jade utensils. They build houses from wood, fence their gardens, and plant palm trees along the coast. Their boats are eight or nine zhang long (around 25-28 meters) and six to seven-tenths of a zhang wide (around 2-2.5 meters). The bow and stern of the boats resemble the head and tail of a fish. The king rides elephants, and women can also ride elephants. They enjoy cockfighting as entertainment.”
Bồn Man
During the territorial expansion of Đại Việt under King Lê Thánh Tông, the kingdom waged war against Bồn Man and Lan Sang, pushing deep into neighboring countries, forcing Southeast Asian states into submission. Relations between Đại Việt and Lan Sang had been strained since the 14th century, leading to frequent border conflicts.
In 1478, according to Laotian historical records, a general of Lan Sang captured a white elephant, a sacred symbol of kingship in the region. When King Lê Thánh Tông requested a tuft of its hair, Crown Prince Trao Leng, who despised Đại Việt, sent elephant dung instead. This provocation infuriated Đại Việt’s court.
That same year, Bồn Man, a vassal of Đại Việt, rebelled under the leadership of Lương Cẩm Tông, allying with Lan Sang to raid Quỳ Hợp, Nghệ An. In response, King Lê launched a military campaign to restore order. Historical records detail a coordinated offensive led by multiple generals, with strategic advances cutting off enemy escape routes.
The Lan Sang army, commanded by Crown Prince Trao Chiêng Lâu, fielded 200,000 troops, 2,000 war elephants, and six generals. Additionally, the ruler of Lanna (Northern Thailand) sent reinforcements. However, Đại Việt forces swiftly advanced through Bồn Man, capturing key territories and launching a decisive attack on Lan Sang’s capital. After fierce battles, Đại Việt emerged victorious, capturing many Lan Sang generals and forcing King Chakkaphat Phaen Phaeo to flee to Lanna (Chiang Mai, Thailand). Đại Việt occupied Luang Prabang, seizing vast resources before pursuing the Lan Sang remnants into Lanna and Ayutthaya.
By 1479, resistance in Bồn Man was led by Chief Cầm Công. King Lê Thánh Tông deployed General Lê Niệm with 300,000 troops to crush the rebellion. Cầm Công was ultimately killed, and Bồn Man was annexed into Đại Việt. This campaign cemented Đại Việt’s dominance over much of Southeast Asia, with kingdoms such as Champa, Cambodia, Lan Sang, Chiang Mai, Ayutthaya, and Java submitting as tributary states. In 1485, Đại Việt even brought Melaka (Malaysia) under its tributary system.
Dã Năng
Dã Năng existed from 548 to 571 before merging into the Vạn Xuân kingdom under the Tiền Lý dynasty. Historical records identify Động Dã Năng as a fertile region in Ai Lao (present-day Laos).
In 548, following the death of Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, husband of Độc Khuất Lão, proclaimed himself Triệu Việt Vương and resisted Chinese invasions. Meanwhile, Lý Thiên Bảo, brother of Lý Nam Đế, established a stronghold in Dã Năng and was proclaimed Đào Lang Vương.
In 555, Lý Thiên Bảo died without an heir, and his nephew Lý Phật Tử was chosen to rule. However, conflicts with Triệu Việt Vương escalated into military confrontations. Eventually, Lý Phật Tử proposed peace, dividing territory along the Thượng Cát and Hạ Cát regions.
Later, Lý Phật Tử’s son, Nhã Lang, married Triệu Việt Vương’s daughter, Cảo Nương. Through deception, Nhã Lang obtained military secrets, allowing Lý Phật Tử to launch a surprise attack. Defeated, Triệu Việt Vương fled south but, seeing no escape, committed suicide at the Đại Nha estuary.
Lý Phật Tử unified the land, ruling from Phong Châu. His reign was later known as the Hậu Lý Nam Đế period to distinguish it from Lý Bí’s rule.
Source (Internet)
Nalanda, 13.02.2025 (16th day of the first lunar month)
Minh Phước Hải


Comments